Main » 2012 » September » 7 » Trạng Quỳnh P1
2:15 PM
Trạng Quỳnh P1
Đâu bằng cái bồ

Quỳnh khi còn bé độ bảy tám tuổi, chơi nghịch đã khác người, lấy tàu chuối làm cờ, lá sen làm lọng, Quỳnh lại tinh ranh; trẻ con trong làng mắc lừa luôn.

Một hôm trời tháng tám, sáng trăng, Quỳnh chơi với lũ trẻ ở sân, bỗng Quỳnh bảo:
- Chúng bay làm kiêu tao ngồi, rồi tao đưa đi xem một người đầu to bằng cái bồ.
Lũ trẻ tưởng thật, tranh nhau làm kiêu rước Quỳnh đi bảy, tám vòng quanh sân, mệt thở không ra hơi. Quỳnh thấy thế bảo:
- Đứng đợi đây, tao đi châm lửa soi cho mà xem.
Lũ trẻ sợ quá, không dám xem, chỉ những đứa lớn ở lại . Quỳnh lấy lửa thắp đèn xong đâu đấy, rồi thò đầu che ngọn đèn, bảo lũ trẻ:
- Kìa! Trông vào vách kia kìa! Ông to đầu đã ra đấy !
Anh nào cũng nhìn nhớn nhơ nhớn nhác, thấy bóng đầu Quỳnh ở vách to bằng cái bồ thật. Lũ trẻ biết Quỳnh xỏ, quay ra bắt Quỳnh làm kiêu đơn. Quỳnh chạy vào trong buồng đóng kín cửa lại, kêu ầm lên. Ông bố tưởng là trẻ đánh, cầm roi chạy ra, lũ trẻ chạy tán loạn.

Lỡm quan thị

Có một ông quan thị đại nịnh thần, được Chúa Trịnh yêu lắm. Ông ta thường đến chơi nhà Quỳnh, thấy sách gì cũng mượn xem, mà ít khi trả. Quỳnh ghét cay ghét đắng, định chơi xỏ một bận cho chừa. Quỳnh bèn lấy giấy trắng đóng thành quyển sách để sẵn.

Một hôm, thấy bóng quan thị đằng xa, Quỳnh giả vờ cầm sách xem, đợi khi ông ta đến nơi thì giấu đi. Quan thị thấy Quỳnh giấu, ngỡ là sách lạ, đòi xem Quỳnh bảo:
- Sách nhảm có gì mà xem.
Quan thị năn nỉ mãi cũng không được, về tâu với Chúa. Chúa đòi Quỳnh sang hỏi. Quỳnh đám chắc là đò về chuyện quyển sách, mới lấy bút viêt mấy câu vào sách bỏ vào tráp khoá lại, rồi sang hầu. Quả nhiên như thế. Quỳnh tâu:
- Không có sách gì lạ, chắc thị thần tâu man với Chúa đó.
Chúa thấy Quỳnh chối, lại càng tin là Quỳnh có sách lạ, bắt phải đem trình. Quỳnh sai người vè đem tráp sang, mở ra, chỉ thấy có một quyển sách mỏng. Quỳnh rụt rè không dám đưa. Chúa bảo:
- Cứ đưa ta xem. Nếu sách lạ thì ta thưởng, mà có phải sách can phạm thì ta cũng xá cho, đừng ngại .
Quỳnh đưa ra . Chúa mở ra xem, chỉ thấy có mấy câu:
"Chúa vị thần viết: Vi cốt tứ địch, vi cốt tứ địch. Thị thần qui nhị tấu viết: Thần phong chỉ phát, thần phông chỉ phát".
Chúa ngẫm lại không biết nghĩa ra làm sao, bảo Quỳnh cắt nghĩa thì Quỳnh rụt rè tâu:
- Sách ấy là sách nhảm nhí của tiểu thần chỉ xem khi buồn, sợ cắt nghĩa ra rác tai Chúa!
Chúa nhất định không nghe, bắt Quỳnh cắt nghĩa cho được.
Quỳnh vâng lệnh tâu với Chúa, câu ấy nghĩa là:
"Chúa hỏi thị thần rằng: làm xương cho sáo, làm xương cho sáo. Thị thần quỳ mà tâu rằng: "Tôi may ngón tóc, tôi may ngón tóc".
Quỳnh cắt nghĩa, nhưng chúa vẫn chưa hiểu ra, lại hỏi:
- Đa đành nghĩa đen là như thế, nhưng ý tứ thế nào ?
Quỳnh tủm tỉm cười không dám nói. Chúa và quan thị đứng hầu bên càng gặng hỏi. Quỳnh mới tâu:
- Xin chúa đọc đảo lại thì ra nghĩa, nhưng mà tục lắm. Bấy giờ Chua với quan thị mới biết Quỳnh lỡm, bảo Quỳnh mang sách về.
Quỳnh ra, quan thị chảy theo trách Quỳnh nhạo cả Chúa, thực là người vô phu, vô quân.
Quỳnh đáp lại rằng:
- Ngài bảo tôi là vô phu, vô quân thì bọn thưòng thị đời Hậu Hán là gì? Tôi đã giấu mà ngài cứ nịnh để đòi ra cho được thì lỗi tại ai ?
Quan Thị tịt mắt.

Cấy ruộng chúa Liễu

Lúc Quỳnh còn là học trò nhà nghèo, phải ra đền Sông xin cấy rẽ. Quỳnh khấn và xin âm dương xem Chúa thuận lấy gốc hay lấy ngọn. Ban đầu chúa thuận lấy ngọn thì Quỳnh trồng rặt thứ khoai lang. Đến lúc được ăn, Quỳnh đào lấy củ, còn bao nhiêu dây ngọn đem nộp chúa.

Lần thứ hai, xin âm dương, Chúa thuận lấy gốc để ngọn cho Quỳnh, thì Quỳnh trồng các thứ lúa. Đến mùa gặt, Quỳnh cắt lấy bông, còn bao nhiêu gốc rạ đem nộp Chúa.
Chúa hai lần mắt hợm, tức lắm, song đã trót hứa rồi, không biết làm thế nào được. Lần thứ ba, Quỳnh đến xin thì Chúa bảo lấy cả gốc, lẫn ngọn, còn khúc giữa cho Quỳnh, Quỳnh vờ kêu ca:
- Chị lấy thế thì em còn được gì nữa!
Khấn đi khấn lại mãi, Chúa nhất định không nghe, Quỳnh về trồng rặt ngô, đến kỳ bẻ ngô, bao nhiêu bắp Quỳnh giữ lại, còn ngọn và gốc thì đem nộp Chúa.
Chúa mắc mưa Quỳnh ba lần, đòi lại ruộng, song trong ba vụ này, Quỳnh đã kiếm được cái vốn to rồi.

Quan trường mắc lỡm

Khi vào trường thi, không mấy lúc Quỳnh ngồi yên, trong lều cứ đeo ống quyển đi vẩn vơ gần đường thập đạo. Quan trường biết Quỳnh hay chữ, thấy đi nhung nhăng thì hỏi:

- Đã làm xong được bài chưa, đưa xem?
Quỳnh thưa:
- Mới xong được vài đoạn, nhưng mà thối lắm, không thể ngửi được, xin các ông đừng xem!
Quan trường thấy Quỳnh muốn giấu, mới bảo:
- Thối thì thối cứ đưa đây!
Quỳnh thưa:
- Quả thối thật, đưa ra sợ các quan bưng mũi không kịp!
Các quan không tin, cho là Quỳnh nhún mình, nhất định đòi xem cho được. Bất đắc dĩ, Quỳnh phải nói to:
- Tôi nói thật, các quan không nghe, xem xong đừng có trách tôi nhé!
Rồi trao ống quyển cho các quan. Không ngờ Quỳnh hoà cứt vào nước đái để trong ống, bắt châu chấu bỏ vào từ bao giờ, lúc các quan mở ra, nó bay tung lên bẩn cả quần áo, chạy không kịp.
Quỳnh cười ầm lên:
- Tôi đã nói thực, lại cứ đòi xem! Các quan giận lắm, nhưng không lấy lẽ gì bắt lỗi được Quỳnh.
Đến kỳ thi Hội, chúa Trịnh cứ ép Quỳnh đi thi để lấy Trạng. Quỳnh không thiết. Chúa ép mãi, phải nghe. Lúc vào thi, làm văn xong, còn thừa giấy, Quỳnh vẽ ngựa, vẽ voi vào sau quyển, rồi đề mấy câu thơ rằng:

Văn chương phú lục đã xong rồi,
Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi.
Tớ có một điều xin bảo thật
Ai mà cười tớ nó ăn bòi!

Làm thế cốt cho phạm trường quy, không lấy đỗ được.

Dê đực có chửa

Quan tư thiên xem thiên văn, thấy địa phận tỉnh Thanh có một ngôi sao sáng, chắc ở đấy có người tài, nhưng không biết làng nào, mới tâu vua. Vua giao cho đinh thần xét. Có một vị tâu:

- Xin tư cho tỉnh thần Thanh Hoá sức mỗi làng phải tiến một con dê đực chửa, hạn một tháng, không có thì trị tội.
Trát đến làng, các cụ kỳ lão lo sốt vó, nhất là ông thân sinh ra Quỳnh lại càng sợ, ông ta là huyng thứ trong làng, tất phải tội trước. Ông ta phàn nàn nhà vua đòi những chuyện oái oăm.
Quỳnh thấy bố buồn rầu mới hỏi:
- Hôm nay thầy có việc gì mà không được vui?
Ông bố đương bực mình liền mắng:
- Việc làng, việc nước, trẻ con biết gì mà hỏi?
Quỳnh nhất định hỏi cho ra, ông bố phải kể thực cho nghe. Quỳnh nghe xong, thưa:
- Con tưởng việc gì, chứ việc ấy thì thầy không phải lo! Nhà vua bắt mua một con, chứ bắt mua mười con cũng có. Xin thầy cứ ra nhận lời với làng, chồng cho con trăm quan tiền để con đi mua. Không thì mình chịu tội cho cả làng.
Ông bố thấy con nói thế, lạ lắm, nhưng nghĩ bụng: "Ta thử nghe trẻ con xem sao!" mới đánh liều ra nhận với làng, làm tờ cam đoan, đem tiền bảo con đi mua.
Sáng sớm, hai bối con khăn gói, com nắm, vác chục quan tiền ra Thăng Long mua dê. Đến nơi, Quỳnh nói với bố hỏi dò xem hôm nào vua ngự chơi phố. Hôm đó, Quỳnh dậy thật sớm, lén xuống dưới cổng cửa Đông nằm chực.
Đợi đến quá ngọ, nghe tiếng xe ngựa quan quân di xình xịch trên cổng, Quỳnh liền khóc oà lên. Vừa lúc xa giá đi qua, vua nghe tiếng trẻ khóc mà không thấy người, sai lính đi tìm, lôi được Quỳnh ở dưới cống lên. Vua hỏi:
- Sao mày lại chui xuống cống?
Quỳnh giả vờ không biết là vua, nói:
- Thưa ông, tôi thấy xe ngựa đông, sợ chết chẹt nên tránh xuống cống.
- Thế tại sao khóc?
- Thưa ông, mẹ tôi chết đã ba năm nay mà mãi không thấy bố tôi đẻ để có em mà ẵm nên tôi khóc!
- Thằng này mới dở hơi chứ! Làm gì có đàn ông đẻ bao giờ.
- Thưa ông, mới rồi tôi thấy các cụ làng tôi rủ nhau đi mua dê đực chửa để tiến vua. Dê đực chửa được thì chắc bố tôi cũng đẻ được.
Vua và các quan đi hộ giá đều bật cười, biết đứa bé này có tài, ứng vào ngôi sao sáng, liền thưởng tiền và tha cho dân làng không phải cống dê đực chửa nữa.

Cây nhà lá vườn

Quỳnh nhiều lần thất lễ với chúa, nên trước Chúa quý trọng bao nhiêu thì sau lại ghét bấy nhiêu. Quỳnh thất Chúa ghét, lại càng trêu tợn.

Một lần, Chúa sai lính đến kéo đổ nhà Quỳnh. Quỳnh thấy lính đến thì bảo:
- Chúa sai các anh đến kéo đổ nhà ta thì các anh cứ việc kéo, không được reo, được cười, ai mà reo cười thì ta cắt lưỡị
- Nghề kéo nặng thì phải reo hò, không dô ta, không hò khoan đố ai kéo được. Bọ lính phải chịu về không.
Lại một lần nữa, Chúa sai lính đến ỉa giữa nhà Quỳnh. Quỳnh cầm dao ra bảo lính:
- Chúa sai các anh đến ỉa giữa nhà ta, thì cứ việc ỉa, nhưng cấm đái, anh nào mà đái ta cắt dái đi.
Ỉa ai mà nhịn đái được, bọn lính phải cắp đít về. Có một vài anh lá, nghe thấy thế, đái ở trước nhà, rồi mới đến ỉa, lại đem gáo dừa đề phòng. Quỳnh thấy nó lập mưu trước, đành chịu nhưng trong bụng căm lắm, bèn kiếm cách xược lại Chúa. ít lâu sau, Quỳnh đi mua một cây cải thật to sai người đem dâng, làm cơm chúa xơi. Khi Quỳnh vào hầu, Chúa hỏi cải đâu mà to lạ thế và khen ngon.
Quỳnh thưa:
- Cải nhà trồng, trước nó không to mấy, nhờ độ nọ Chúa sai lính đến ỉa nhà thần, thần đem phân ấy bón cho, nên lớn bổng lên thế. Cây nhà lá vườn đem dâng để chúa xơi.
Chúa Trịnh tái mặt lại.

Ăn trộm mèo

Nhà vua có một con mèo quý lắm, xích bằng xích vàng và cho ăn những đồ mỹ vị.
Quỳnh vào chầu, trong thấy, bắt trộm về, cất xích vàng đi mà buộc xích sắt, nhốt một chỗ, đến bữa thì để hai bát cơm, một bát thịt cá, một bát rau nấu đầu tôm.

Mèo ta quen ăn miếng ngon chạy đến bát cơm thịt cá chực ăn. Quỳnh cầm sẵn roi, hễ ăn thì đánh. Mèo đói quá, phải ăn bát rau nấu đầu tôm. Như thế, được hơn nửa tháng, dạy đã vào khuôn, mới thả ra.
Vua mất mèo, tiếc quá, cho người đi tìm, thấy nhà Quỳnh có một con giống hệt, bắt Quỳnh đem mèo vào chầu. Vua xem mèo, hỏi:
- Sao nó giống mèo của trẫm thế? Hay khanh thấy mèo của trẫm đẹp bắt đem về, nói cho thật!
- Tâu bệ hạ, bệ hạ nghi cho hạ thần bắt trộm, thật là oan, xin bệ hạ đem ra thử thì biết.
- Thử thế nào? Nói cho trẫm nghe .
- Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ phú quý thì mèo ăn thị ăn cá, còn hạ thần nghèo túng thì mèo ăn cơm với đầu tôm, rau luộc. Bây giờ để hai bát cơm ấy, xem nó ăn bát nào thì biết ngay.
Vua sai đem ra thử. Con mèo chạy thẳng đến bát cơm rau, ăn sạch.
Quỳnh nói:
- Xin bệ hạ lượng cho, người ta phú quý thì ăn cao lương mỹ vị, bần tiền thì cơm hầm rau dưa. Mèo cũng vậy, phải theo chủ.
Rồi lạy tạ đem mèo về.

Ông nọ bà kia

Ở làng Quỳnh có mấy người tấp tểnh công danh, nay cầu mai cục nhờ Quỳnh gây dựng cho, may ra được tý phẩm hàm để khoe với làng nước. Một hôm, Quỳnh ở kinh đô về, sai người mời mấy anh ấy lại bảo:

- Giờ có dịp may, nào các anh có muốn làm ông nọ bà kia thì nói ngay.
Thấy Quỳnh ngỏ lời như thế, anh nào cũng như mở cờ trong bụng, tranh nhau nhận trước.
Quỳnh bảo:
- Được các anh về nhà thu xếp khăn gói, rồi lại đây uống rượu mừng với ta, mai theo ta ra kinh đô sớm.
Anh nào anh nấy lật đật về nhà, vênh váo, đắc chí lắm, có anh về đến cổng, thấy vợ đang làm lụng lam lũ, liền bảo vợ:
- Ít nửa làm nên ông nọ bà kia, không được lam lũ thế mà người ta cười cho.
Vợ hỏi:
- Bao giờ làm quan mà khoe váng lên thế?
- Nay mai thôi, sắp sửa khăn gói để mai đi sớm!
Nói xong, vội vàng lại nhà Quỳnh đánh chén. Anh nào anh nấy uống say tít, rồi mỗi anh nằm một xó. Đến khuya, Quỳnh sai người đem võng, võng anh nọ về nhà anh kia, anh kia về nhà anh nọ, nói dối rằng: Say rượu ngộ cảm phải bôi dầu xoa thuốc ngay không thì oan gia!
Các "bà lớn" đang mơ màng trong giấc mộng, thấy người gõ cửa mà lại nói những chuyện giật mình như thế, mắt nhắm mắt mở, tưởng là chồng, ôm xốc ngay vào nhà, không kịp châm đèn đóm, rồi nào bôi vôi, nào xoa dầu, miệng lẩm bẩm: "Rượu đâu mà rượu khốn, rượu khổ thế! Ngày mai lên đường mà bây giờ còn say như thế này! Nhờ phúc ấm có làm được ông nọ bà kia thì cũng lại tiền toi thôi!"
Xoa bóp cho đến sáng, nhìn thì hoá ra anh láng giềng, các bà ngẩn người mà các anh đàn ông kia lại càng thẹn, cứ cúi gầm mặt xuống cút thẳng. Về nhà thấy vợ mình cũng đang ngẩn người, đỏ mặt tía tai, vội nói ngay:
- Ai ngờ nó... xỏ thế! Tưởng ông nọ bà kia là thế nào! Thôi kệch đến già!

Suýt chết vì quả đào

Quỳnh cậy tài, đùa cả với chúa, không từ ai. Một hôm, lúc túc trực trong cung, có người đem đâng vua một mâm đào, gọi là "đào trường thọ", Quỳnh thủng thỉnh lại gần, lấy một quả, ngồi ăn, giữa đông đủ mặt vua quan, mà làm như không trông thấy ai cả.

Vua quở, giao xuống cho các quan nghi tội. Các quan chiếu theo luật "mạn quân" tâu nghị trảm. Quỳnh quỳ xuống tâu rẳng:
- Đinh thần nghị tội hạ thần như vậy, thạt là đúng luật, không oan, song xin Hoàng thượng rộng dung cho hạ thần được nói vài lời rồi chết cho thỏa!
Vua phán:
- Ừ, muốn nói gì cho nói!
- Muôn tâu bệ hạ, hạ thần có bụng tham sinh, sợ số chết non, thấy quả gọi là quả "trường thọ" thèm quá tưởng ăn vào được sống lâu như Bánh Tổ, để được thờ nhà vua cho tận trung. Không ngờ nuốt chưa khỏi mồm mà chết đã đến cổ! Hạ thần trộm nghĩ nên đề tên quả ấy là quả "đoản thọ" thì phải hơn, và xin nhà vua trị tội đứa dâng đào đẻ trừ kẻ xu nịnh.
Vua nghe Quỳnh tâu phải, bật cười tha tội cho.

Câu đố

Một hôm, nhà có giỗ, làm thịt lợn mời khách khứa đông lắm. Thấy Quỳnh hay nghịch, ai cũng chòng ghẹo chơi.

Đương lúc Quỳnh xem làm thịt lợn, có một ông Tú tên lá Cát thường tự phụ hay chữ chạy đến béo tai, bảo:
- Tao ra một câu đối, đối được tao tha cho:
- Lợn cấn ăn cám tốn (1)
Quỳnh đối ngay:
- Chó khôn chớ cắn càn (2)
Ông Tú lại ra một câu nữa, câu này có ý tự phụ mình là ông Tú:
- Trời sinh ông Tú Cát (3)
Quỳnh lại đối:
- Đất nứt con bọ hung
Ông Tú phải lỡm, tịt mắt. Mọt người cười ầm cả lên.

(1) Cấn là quẻ cấn, Tốn là quẻ tốn trong bát quái . Đây lấy nghĩa lợn cấn (chửa) mà ăn tốn cám.
(2) Khôn là quẻ khôn, Càn là quẻ càn cũng trong bát quái, đây lấy nghĩa con chó khôn chớ cắn càn, cắn bậy .
(3) Cát còn có nghĩa là tốt; hung còn có nghĩa là xấu.

Vay tiền chúa Liễu

Lại một lần Qùynh vào yết điện, thấy chúa có nhiều tiền, trông sướng mắt, định vay.

Quỳnh khấn:
- Em độ này túng lắm, chị có tiền để không, xin cho em vay để em buôn bán, kiếm ít lời.
Nói rồi, khấn dài âm dương: "Sấp thì chia tư, chị cho em vay một phần, ngửa thì chia ba, chị cho một phần, chị mà thuận cho một nửa thì xin nhất âm nhất dương."
Thấy đằng nào Quỳnh cũng vay được, mà ý Chúa thì không muốn cho vay, vì biết được là cho vay, Quỳnh sẽ không trả, liền cứ làm cho hai đồng tiền quay tít, chẳng sấp mà cũng chẳng ngửa.
Quỳnh thất thế vỗ tay reo:
- Tiền múa Chúa cười,thế là chị bằng lòng cho em vay cả rồi!
Nói xong, vác hết cả tiền về.

Quỳnh trả ơn chúa Liễu

Gặp khoa thi, Quỳnh ra ứng thi. Đường đi qua đến Sông, Quỳnh vào yết Chúa, xin Chúa phù hộ cho, đỗ thì xin trả lễ.

Quỳnh ra thi, quả nhiên đỗ thật. Vinh qui về, Quỳnh mua một con bò mẹ, một con bò con, đem đến lễ, Quỳnh quỳ xuống lạy, rồi dắt con bò mẹ đến buộc vào tay ngai mà khấn rằng:
- Chúa có lòng thương phù hộ cho Quỳnh được đỗ, nay gọi là có một con bò để trả lễ. Xin Chúa nhận cho. Chúa là chị, xin lễ con lớn, còn con nhỏ, em xin đem về khao dân.
Nói rồi, dắt con bò vè. Con bò mẹ thấy dắt mất con đi, lồng lên chạy theo, làm ngai Chúa đổ lổng chổng, long gẫy cả. Quỳnh cười nói:
- Chị thương em nghèo, trả không lấy, thì em xin đem về vậy.
Nói rồi dắt cả hai mẹ con bò về.

Dòm nhà quan Bảng

Đồn rằng Quỳnh xinh cùng thời với Thị Điểm. Quan Bảng sinh ra thị Điểm, dạy học trò đông lắm. Quỳnh ngày ngày giả vờ đến xem bình văn, để ngấp nghé cô Điểm. học trò biết ý, vào thưa với quan Bảng, ngày bắt vào hỏi.

Quỳnh thưa:
- Tôi là học trò, thấy trường quan lớn bình văn, tôi đến nghe trộm.
Quan Bảng nói:
- Ta biết hết rồi, anh đừng giả danh học trò mà bắt chước tuồng chim chuột. Có phải học trò thì ta ra cho một câu đối, không đối được thì đánh đòn!
Quỳnh vâng.
Quan Bảng ra một câu:
- Thằng quỷ ôm cái dấu, đứng cửa khôi nguyên
Quỳnh ứng khẩu đối ngay:
- Con mộc dựa cây bàng, dòm nhà bảng Nhãn
Quan Bảng thấy Quỳnh xuất khẩu thành chương có bụng yêu, giữ Quỳnh lại nuôi ăn học. Quỳnh học tấn tới lắm, kỳ nào văn cũng được đọc. Từ ngày trường quan Bảng có Quỳnh, bao nhiêu học trò danh sĩ đều phải nhận Quỳnh tài giỏi hơn cả.
Quan Bảng thấy Quỳnh học giỏi, có ý muốn gả cô Điểm cho, mà cô Điểm nghe cũng thuận.
Quỳnh biết rằng cô Điểm vào tay mình rồi, thoả được ước nguyện, song tính tinh nghịch, cứ đùa cợt luôn. Cô Điểm đứng đắn, thùy mị không ứa chớt nhả, Quỳnh lại càng ghẹo dai.
Thể loại: Truyện (Ma + Cười) | Xem: 278 | Thêm bởi: iiviiR_zInNo | Đánh giá: 0.0/0
Tất cả bình luận: 0
Chỉ có thành viên mới có thể thêm ý kiến​​.
[ Đăng ký | Đăng nhập ]